Nguyễn Hưng Quốc: Phương pháp dạy tiếng Việt | Kỳ 2: Việc dạy tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai

Việc dạy và học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ nhất đã có từ lâu, ít nhất cũng lâu bằng lịch sử tiếng Việt: cha mẹ dạy cho con cái, anh chị em dạy cho nhau, người này dạy cho người khác. Cứ thế, tiếng Việt được lưu truyền và mở rộng như một phương tiện giao tiếp chính của cộng đồng, trước là bộ tộc, sau là quốc gia. Nhưng việc dạy và học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai, tức đối với những người thuộc một nền văn hoá khác, thì sao? Không có tài liệu, nhưng tôi đoán hẳn là phải có. Ngay từ xưa, thật xa xưa, người Việt Nam đã phải giao tiếp với nhiều sắc dân khác. Để giao tiếp, không thể không học ngôn ngữ của nhau. Có thể nêu trường hợp của Trần Nhật Duật (1255-1330) làm ví dụ.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư kể:

Nhật Duật rất thông hiểu ngôn ngữ các phiên bang. [1] Đối với khách nước Tống, ông có thể ngồi đàm luận suốt ngày. Người Chiêm hay người các xứ Man và sứ của nước Sách Mã Tích[2] đến, ông đều theo quốc tục của họ mà tiếp đãi và nói chuyện với họ. Vua Nhân Tông thường khen Nhật Duật là kiếp sau của các bộ lạc người Phiên.

Khi tiếp sứ nhà Nguyên thì Nhật Duật không cần người phiên dịch, dắt tay nhau vào quán cùng ngồi uống rượu vui vẻ như bình thường. Sứ nhà Nguyên nói: ‘Ngài là người Chân Định[3] đến làm quan nơi đây chứ gì?’ Nhật Duật bác lại, nhưng họ vẫn không tin.[4]

Người Việt có nhu cầu học các ngôn ngữ khác để giao tiếp. Có lẽ các dân tộc khác, nhất là những dân tộc láng giềng nhỏ và yếu hơn Việt Nam, cũng có nhu cầu tương tự. Tiếc, chúng ta chưa tìm thấy tài liệu gì liên quan đến vấn đề này.

Tài liệu sớm và rõ nhất về việc dạy và học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai là của các giáo sĩ Tây phương vào thế kỷ 17. Tiêu biểu nhất là trường hợp của Alexandre de Rhodes (1591-1660). Ông đến Việt Nam vào tháng 3 năm 1626 và bắt đầu học tiếng Việt. Thoạt đầu, ông rất lo lắng: “Thú thật là khi tôi đến Nam Kỳ và nghe tiếng nói của người bản địa, đặc biệt là phụ nữ, tôi cảm thấy như nghe tiếng chim hót líu lo và tôi mất hết hy vọng có ngày học được thứ tiếng ấy.” Tuy vậy, với một năng khiếu học ngoại ngữ “dễ dàng một cách thần kỳ” như lời nhận xét của Léopold Cadière (1869-1955), chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã có thể làm chủ được cái ngôn ngữ như tiếng chim hót líu lo ấy. Ông kể trong cuốn hồi ký Voyages et Missions xuất bản năm 1854: “Tôi học hàng ngày chăm chỉ hệt như trước đây học thần học ở Roma, và ý Chúa là sau bốn tháng, tôi đã có thể nghe hiểu những lời xưng tội, sau sáu tháng, tôi có thể giảng đạo bằng tiếng Nam Kỳ.” Sau đó, năm 1645, trước khi về lại Roma, Alexandre de Rhodes nhận lãnh trách nhiệm dạy tiếng Việt cho hai giáo sĩ Carlo della Roca và Metello Sacano.[5] Xin lưu ý: từ năm 1615 đến năm 1788, có 145 linh mục dòng Tên đến truyền giáo tại Việt Nam.[6] Hẳn họ cũng học tiếng Việt như thế.

Tuy nhiên, việc dạy và học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai có lẽ chỉ bắt đầu được tiến hành một cách tự giác và có hệ thống từ cuối thế kỷ 19, khi Pháp bắt đầu cai trị Việt Nam. Để cai trị, thực dân có nhu cầu tìm hiểu ngôn ngữ người bản xứ bên cạnh việc sử dụng các thông dịch viên như một tầng lớp trung gian. Số người Pháp, từ giới học giả đến giới quan lại, biết tiếng Việt khá nhiều. Có điều hầu hết đều học tiếng Việt ở Việt Nam. Chủ yếu là học trực tiếp. Việc học tiếng Việt như một ngoại ngữ ở ngoài Việt Nam có lẽ xuất hiện muộn hơn, trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai, và đặc biệt nở rộ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam (1954-75), khi vấn đề Việt Nam, lần đầu tiên được quốc tế hoá. Ngoài Pháp, nhiều quốc gia khác cũng đưa tiếng Việt vào chương trình đại học hoặc các trung tâm sinh ngữ lớn. Ở Nga, cuốn sách dạy tiếng Việt đầu tiên do Ju. Shutsky soạn thảo được xuất bản từ năm 1934; ba năm sau, 1937, thêm một cuốn khác được ra đời dưới tên tác giả là Minin, một biệt hiệu của Nguyễn Khánh Toàn, sau này trở thành Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam.[7] Tuy nhiên, sau cái “thuở ban đầu” ấy, dường như không mấy ai còn tha thiết học tiếng Việt nữa. Đầu thập niên 1950, thời kháng chiến chống Pháp, có lần Hồ Chí Minh gửi sang Nga một bức điện văn toàn bằng tiếng Việt. Bộ Ngoại giao Nga không đọc được. Tìm quanh ở thành phố Moscow: cũng không ai biết tiếng Việt. Một người duy nhất còn nhớ lõm bõm chút tiếng Việt học được từ thập niên 1930 thì lại ở xa. Rất xa. Cuối cùng, Bộ Ngoại giao Nga phải chuyển bức điện văn ấy sang Toà Đại sứ của họ ở Paris để nhân viên ở đó tìm người đọc và dịch giùm sang tiếng Nga. Mấy năm sau, đặc biệt từ 1954, Nga mới bắt đầu chú ý đến việc mở các lớp tiếng Việt.[8]

Ở Mỹ, lớp tiếng Việt được tổ chức lần đầu tiên vào niên khoá 1943-44 dưới sự hướng dẫn của giáo sư Murray B. Emeneau, tác giả cuốn sách nghiên cứu về tiếng Việt đầu tiên bằng tiếng Anh được xuất bản vào năm 1951: Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar. Từ thập niên 1950, các đại học như Cornell, Georgetown, Yale và Columbia; và từ giữa thập niên 1960, thêm Đại học Washington và Đại học Hawaii ở Manoa, lần lượt mở các lớp tiếng Việt, từ đó, nổi lên tên tuổi của một số nhà Việt ngữ và Việt học nổi tiếng như Huỳnh Sanh Thông, Nguyễn Đình Hoà, Nguyễn Đăng Liêm, Stephen O’Harrow và L.C. Thompson, tác giả cuốn A Vietnamese Reference Grammar (1965). Năm 1969, trường Đại học Southern Illinois thành lập Trung tâm Việt học (Center for Vietnamese Studies).[9] Năm 1971, Đại học Havard bắt đầu mở các lớp Việt ngữ. Sau năm 1975, một số trường đại học khác như Đại học California ở Berkeley, Los Angeles và San Diego cũng như Đại học California State ở San Francisco, Đại học Arizona State, Đại học Michigan ở Ann Arbor và Đại học Texas ở Lubbock cũng lần lượt mở các lớp tiếng Việt.[10]

Ngoài Pháp, Nga và Mỹ, tiếng Việt cũng được giảng dạy tại một số quốc gia khác, như Đức (ở Đại học Humboldt, Passau, Hamburg, và Freiburg), Đan Mạch (Viện Nordic Institute of Asian Studies), Anh (School of Oriental and African Studies thuộc Đại học London), Trung Quốc (Đại học Beijing, Yannan và Viện Qansi), Nhật Bản (Tokyo University of Foreign Studies, Kyoto University of Foreign Studies và Osaka University of Foreign Studies), ở Hàn Quốc (Hankuk University of Foreign Studies of South Korea, Seoul National University và Korea University), ở Singapore (National University of Singapore).[11]

Riêng tại Úc, tiếng Việt được bắt đầu giảng dạy từ đầu thập niên 1960 tại Trường Sinh ngữ Quân đội (thoạt đầu mang tên là RAAF – Royal Australian Air Force – School of Languages; sau, từ năm 1993, đổi lại thành ADF – Australian Defence Force – School of Languages). Ngoài tiếng Việt, trường còn dạy khoảng gần 20 ngôn ngữ khác. Tất cả các lớp ngôn ngữ này đều có hai đặc điểm giống nhau: một, ngắn hạn và cấp tốc; và hai, nhằm chủ yếu đào tạo các nhân viên trong quân đội, ngoại giao và tình báo. Tiếng Việt chỉ được thực sự giảng dạy trong hệ thống giáo dục Úc từ đầu thập niên 1980, lúc làn sóng người Việt tị nạn đến Úc càng ngày càng nhiều và lúc Úc đã định hình được một chính sách ngôn ngữ quốc gia hoàn chỉnh.

Nói chung, ở ngoại quốc, tiếng Việt chỉ được chú ý từ giữa thế kỷ 20 dưới ảnh hưởng của chiến tranh, của xu hướng toàn cầu hoá, và đặc biệt, của sự xuất hiện của cộng đồng người Việt ở hải ngoại từ sau năm 1975. Số người học tiếng Việt, như vậy, bao gồm hai thành phần chính: người ngoại quốc và người gốc Việt. Trình độ, nhu cầu và cách thức học tiếng Việt của hai thành phần này khác hẳn nhau. Với thành phần thứ nhất, tiếng Việt là một ngoại ngữ. Hoàn toàn là một ngoại ngữ. Với thành phần thứ hai, tiếng Việt là một trong hai ngôn ngữ chính họ thụ đắc và sử dụng (bilingualism), thường được gọi là ngôn ngữ cộng đồng (community language) hoặc ngôn ngữ di sản (heritage language). Học tiếng Việt như một ngoại ngữ, người ngoại quốc phải bắt đầu từ đầu: học cách phát âm từng vần, từng chữ; học quy tắc tạo câu từ những điểm căn bản nhất; và phải sử dụng lớp học như một môi trường duy nhất để học tập. Học tiếng Việt như một song ngữ, người gốc Việt có nhiều lợi thế và ưu thế hơn: họ tiếp tục hơn là bắt đầu. Hầu hết trẻ em gốc Việt, khi bước vào các lớp tiếng Việt, dù ở mẫu giáo, cũng đã ít nhiều biết tiếng Việt, ít nhất ở hai kỹ năng nghe và nói. Rời lớp học, các em tiếp tục học và thực hành tiếng Việt trong gia đình. Với bố mẹ và ông bà. Hay, có khi, với cả cộng đồng chung quanh (trong các sinh hoạt tôn giáo, xã hội hoặc thương mại).

Trong hai thành phần học tiếng Việt kể trên, thành phần thứ hai đông hơn hẳn thành phần thứ nhất.

Giới hạn trong thành phần thứ hai, nghĩa là giới hạn trong việc học tiếng Việt như một ngôn ngữ cộng đồng/di sản, dường như không ở đâu trên thế giới, tiếng Việt lại phát triển mạnh mẽ như là tại Úc, ít nhất ở bậc tiểu học và trung học.

Trong số gần bốn triệu người Việt Nam đang sống ở nước ngoài, gần một nửa (theo cuộc điều tra dân số năm 2010 là đúng 1.548.449 người) định cư tại Mỹ (trong đó khoảng một nửa sống tại hai tiểu bang California – gần 600.000 – và Texas – hơn 200.000 người).[12] Nước kế tiếp là Cambodia (khoảng 600.000) và Pháp (khoảng 300.000). Sau đó là Canada và Úc; mỗi nơi có trên 200.000 người.

Cộng đồng người Việt tại Úc, như vậy, chỉ đứng hàng thứ tư trên thế giới, sau Mỹ, Cambodia và Pháp, đồng hạng với Canada. Tuy nhiên, về phương diện bảo tồn và giảng dạy tiếng Việt, không chừng Úc là quốc gia dẫn đầu.

Dẫn đầu trên ba phương diện.

Thứ nhất, về pháp lý, tiếng Việt được chính thức công nhận là một ngôn ngữ ngoài tiếng Anh (LOTE, Language Other Than English) như mọi ngôn ngữ khác trong hệ thống giáo dục các cấp. Từ tiểu học và trung học đến đại học, học sinh và sinh viên đều có thể học tiếng Việt; và giá trị của môn tiếng Việt được xem tương đương với mọi ngôn ngữ hay mọi môn học khác. Ví dụ, trong các cấp tiểu học và trung học, học sinh có thể chọn học tiếng Việt như một ngoại ngữ; trong các kỳ thi tốt nghiệp, học sinh có thể chọn thi môn tiếng Việt; ở bậc đại học, sinh viên có thể chọn tiếng Việt và Việt học làm một chuyên ngành (specialisation; hoặc còn gọi là một ngành học chính, major) trong suốt chương trình Cử nhân kéo dài ba hay bốn năm.

Thứ hai, về tổ chức, khi tiếng Việt đã được công nhận ngang hàng với mọi ngôn ngữ khác, việc giảng dạy tiếng Việt cũng được thừa nhận trong mọi cấp học. Ở các quốc gia khác, trẻ em cũng có thể học tiếng Việt. Nhưng hầu hết đều học vào cuối tuần và ở các trung tâm Việt ngữ do hội đoàn, chùa chiền hoặc nhà thờ tổ chức. Đó là những sinh hoạt hoàn toàn có tính cộng đồng, thuộc trách nhiệm của cộng đồng và chỉ có ý nghĩa với /và trong cộng đồng. Ở Úc thì khác. Môn tiếng Việt được đưa hẳn vào chính mạch, được giảng dạy ngay trong các lớp chính quy. Như các ngôn ngữ khác. Ngay cả khi nó được giảng dạy trong các trường ngôn ngữ hay các trường trường sắc tộc vào cuối tuần thì, thứ nhất, nó cũng nhận được sự tài trợ của chính phủ; và thứ hai, kết quả học tập cũng được ghi vào học bạ của học sinh ở trường chính. Về tài chính, tất cả các trường dạy tiếng Việt chính thức đăng ký với Bộ giáo dục đều nhận được trợ cấp của chính phủ (190 đô/một năm cho mỗi học sinh).[13] Thường, các trường thu học phí thêm khoảng từ 80 đến 100 đô một năm (tuỳ theo cấp lớp). Như vậy, nhà trường sẽ có tổng cộng khoảng trên 260 đô cho mỗi em. Số tiền ấy đủ để trả mọi chi phí điều hành lớp học, như thuê mướn phòng ốc, sao chép tài liệu và trả lương cho giáo viên.

Thứ ba, về phương diện quy mô, do hai đặc điểm vừa nêu, số lượng người học tiếng Việt tại Úc rất cao. Nếu tính theo tỉ lệ dân số của cộng đồng Việt Nam, tôi ngờ là cao hơn bất cứ quốc gia nào khác ngoài Việt Nam, kể cả Mỹ. Ví dụ, theo Anh Trần, vào năm 1998,[14] tại California, có 55 trường Tiếng Việt với khoảng 8.000 học sinh,[15] trong đó trường lớn nhất là trường Văn Lang ở San Jose với hơn 1.000 học sinh được chia thành 35 lớp, từ lớp 1 đến lớp 12.[16] Dân số người Việt tại tiểu bang California, theo cuộc điều tra dân số Mỹ vào năm 2010, là 581.946 người.[17] Trong khi đó, tại tiểu bang Victoria, nơi có 58.873 người Việt sinh sống, [18] số lượng học sinh học tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 12 ở cả ba hệ: trường chính mạch (mainstream school), trường ngôn ngữ (Victorian School of Languages -VSL) và trường sắc tộc (ethnic school) là khoảng 11.000 em.[19] Nói cách khác, số học sinh học tiếng Việt ở Victoria nhiều hơn ở California trong khi dân số người Việt ở Victoria thì chỉ bằng một phần mười ở California mà thôi.

Ở đây, có hai điều cần được nhấn mạnh để tránh hiểu lầm:

Một, tôi chỉ bàn đến số lượng học sinh chính thức trong trường Việt ngữ chứ không có ý nói việc bảo tồn tiếng Việt trong cộng đồng người Việt ở Mỹ kém hơn ở Úc. Năm 1999, R. Young và M. Tran phỏng vấn 100 phụ huynh về việc sử dụng ngôn ngữ trong nhà; kết quả cho thấy, 84.6% trẻ em chỉ nói tiếng Việt; 15.4% vừa nói tiếng Việt vừa nói tiếng Anh; không có gia đình nào trẻ em chỉ nói tiếng Anh mà thôi. Năm 2001, Nguyen A., F. Sin và S. Krashen phỏng vấn trên 500 học sinh tiểu học gốc Việt tại Mỹ; kết quả cho thấy có đến 67% tự nhận là nói tiếng Việt giỏi, dù chỉ có 23% là giỏi cả nói lẫn đọc và viết.[20] Theo quan sát của tôi, khả năng nói tiếng Việt của trẻ em gốc Việt, thuộc thế hệ một rưỡi hoặc thứ hai ở Mỹ, đặc biệt ở các tiểu bang có đông người Việt, như California và Texas, rất tốt. Có lẽ các em chủ yếu học trong gia đình, với bố mẹ và ông bà.

Hai, chúng ta cũng chỉ bàn đến số học sinh học tiếng Việt ở cấp tiểu học và trung học. Ở bậc đại học, tổng số sinh viên học tiếng Việt ở Mỹ thường nhiều hơn ở Úc. Ví dụ, theo Elizabeth B. Wells, trong bài “Foreign language enrollments in United States institutions of higher education, fall 2002” đăng trên tạp chí Profession năm 2004, số sinh viên ghi danh học tiếng Việt trong các đại học cộng đồng (hệ 2 năm) vào năm 1998 là 385, năm 2002 là 1.185; ở đại học (hệ 4 năm), năm 1998 là 491, năm 2002 là 1.003. Tổng cộng cả hai hệ cùng với hệ hậu đại học (graduate levels), năm 1998 là 899; năm 2002 là 2.236, tăng 148.7% trong vòng bốn năm (tr. 144 & 149). Ở Úc, tổng số sinh viên học tiếng Việt ở các đại học, ngay trong thời cực thịnh, cũng chỉ khoảng vài ba trăm mỗi năm, chủ yếu tập trung ở trường Victoria University, Melbourne.[21]

Tiếng Việt tại các trường trung và tiểu học

Tiếng Việt chính thức được đưa vào chương trình giảng dạy trong hệ thống giáo dục tại Úc từ đầu thập niên 1980. Trong suốt hai thập niên sau đó, số lượng học sinh ở cấp tiểu học và trung học không ngừng phát triển. Từ đầu thế kỷ 21 đến nay, sự phát triển đã bị khựng lại, nhưng vẫn ở mức ổn định, chưa có dấu hiệu giảm sút mấy.[22]

Về phương diện tổ chức, tại Úc, tiếng Việt – cũng như các ngôn ngữ ngoài tiếng Anh khác – được dạy trong ba hệ thống trường chính, bao gồm:

Ba loại trường dạy tiếng Việt tại Úc

1. Trường chính mạch (mainstream schools) 2. Trường ngôn ngữ (Government-run specialist schools) 3. Trường sắc tộc (Ethnic schools)
  1. Trường chính mạch là bất cứ trường tiểu học hay trung học nào, của chính phủ hay của tư nhân, trong đó, tiếng Việt được giảng dạy như một môn học chính thức, bên cạnh các môn học khác, nằm trong thời khoá biểu chung, từ Thứ hai đến Thứ sáu.
  2. Trường ngôn ngữ do chính phủ quản lý, dạy hoặc dưới hình thức hàm thụ (distance education) hoặc trong các lớp được tổ chức ngoài giờ học chính thức, chủ yếu vào Thứ bảy. Tên gọi của loại trường này thay đổi theo từng tiểu bang, ví dụ, tại New South Wales: Saturday School of Community Languages, SCL (dạy 26 ngôn ngữ khác nhau, trong đó có tiếng Việt); tại Northern Territory: Darwin Language Centre (dạy 8 ngôn ngữ, không có tiếng Việt); tại South Australia: School of Languages (dạy 24 ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt); và tại Victoria: Victorian School of Languages, VSL (dạy 46 ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt).
  3. Trường sắc tộc: Nằm dưới sự quản lý của Hội Ngôn ngữ Cộng đồng Úc (Community Languages Australia), bao gồm 72 ngôn ngữ, trong đó, tiếng Việt là một trong những ngôn ngữ có đông học sinh nhất. Trường được dạy vào cuối tuần, hoặc Thứ bảy hoặc Chủ nhật.[23]

Về số lượng, riêng tại tiểu bang Victoria, học sinh học tiếng Việt trong cả hai hệ thống trường chính mạch và trường ngôn ngữ trong những năm qua xê xích từ 3.000 đến 4.000:

Vietnamese 2002 2003 2004 2005 2006 2007 [24]
Government primary 2.000 2.150 2.612 2.147 1.638 1.694
VSL government primary 453 539 626 515 560 510
Government secondary 1.003 776 780 789 570 563
VSL government secondary 581 605 567 422 585 542
Total 4.037 4.070 4.585 3.873 3.353 3.309

Mạnh nhất là hệ thống trường sắc tộc. Theo thống kê chính thức, vào năm 2008, trên cả nước Úc, có khoảng 15.000 học sinh Việt Nam học tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 12. Khoảng một nửa số học sinh này thuộc tiểu bang Victoria, nơi dân số người Việt được xếp vào hạng thứ hai tại Úc (sau New South Wales):[25]

Australian Capital Territory (Canberra) New South Wales Queensland South Australia Victoria
Chinese
378
Chinese
8.869
Chinese
2.464
Vietnamese
2.021
Chinese
11.274
Greek
200
Arabic
5.583
Vietnamese
1.223
Greek
1.543
Vietnamese
7.339
Arabic
140
Vietnamese
4.196
Greek
478
Chinese
1.052
Greek
6.523
Vietnamese
103
Greek
2.590
Korean
160
French
601
Arabic
2.773

Trong số gần 15.000 học sinh học tiếng Việt, có hơn 9.000 em đang học tiếng Việt từ lớp mẫu giáo đến lớp 6.[26] Như vậy, có thể nói, mặt mạnh nhất của việc dạy và học tiếng Việt tại Úc chính là ở bậc tiểu học. Điều đặc biệt cần chú ý là sự hao hụt từ lớp mẫu giáo đến lớp 6 không đáng kể: ở mẫu giáo có 1.428 em; lên lớp 1 có 1.480 em; đến lớp 6 còn 1.155 em.[27]  Với sự hao hụt ít ỏi ấy, có thể nói số lượng học sinh ở cấp tiểu học khá ổn định: khi đã bắt đầu, phần lớn các em sẽ tiếp tục học mãi, ít nhất cho đến hết cấp.

Pre-Year 1 Year 1 Year 2 Year 3 Year 4 Year 5 Year 6 Total
Ý 22521 25618 28852 32652 30843 34942 35446 208874
Nhật 12867 14772 15819 21920 24612 35410 45890 176245
Nam Dương 9942 11877 14712 19537 18036 24622 26273 124999
Pháp 5277 5900 6397 9356 10030 13744 17455 68159
Đức 4248 4878 5352 6434 7640 11346 16261 47979
Quan Thoại 4767 4968 4873 5850 6819 9130 11572 47979
Á Rập 2732 2743 2408 2572 2470 2396 2049 17370
Hy Lạp 1927 1972 1843 2066 1945 2042 1999 13794
Tây Ban Nha 1607 1597 1741 1822 1303 1198 1156 9137
Việt 1428 1480 1280 1292 1303 1198 1156 9137

Thuộc hệ thống trường sắc tộc, số học sinh học tiếng Việt tại tiểu bang Victoria từ trước đến nay ít thay đổi, năm nào cũng có khoảng trên dưới 7.000 em, nằm trong danh sách những ngôn ngữ có đông học sinh nhất của cả tiểu bang. Ví dụ, năm 2011:

Ngôn ngữ Trường Học sinh Giáo viên
Chinese 29 11.767 351
Vietnamese 18 7.588 247
Greek 40 6.599 136
Arabic 21 2.942 146
Somali 5 911 37
Italian 3 905 40
Sinhala 6 733 41
Russian 6 559 36
Japanese 1 437 35
Turkish 5 378 19

Nguồn: http://www.communitylanguages.org.au/

Như vậy, tính chung cả ba hệ thống, với con số khoảng 11.000 học sinh, Victoria là tiểu bang có đông học sinh học tiếng Việt nhất nước Úc. Các tiểu bang khác ít hơn nhiều. Tổng cộng, trên cả nước Úc hiện nay (năm 2011), có lẽ có khoảng 20.000 học sinh đang học tiếng Việt ở các cấp, từ tiểu học đến đại học.

Tiếng Việt ở bậc đại học

Tiếng Việt được giảng dạy tại các trường đại học tại Úc từ năm 1982, thoạt đầu tại hai tiểu bang Western Australia (Mount Lawley College of Advanced Education) và Victoria (Phillip Institute of Technology, Footscray Institute of Technology và Institute of Catholic Education); một năm sau, phát triển sang hai tiểu bang khác là ACT (ANU) và New South Wales (Macarthur Institute of Technology).

Đến năm 1985, lần đầu tiên trên thế giới, tiếng Việt được công nhận là một ngành học chính (major) trong chương Cử nhân Văn khoa (B.A.) tại trường Footscray Institute of Technology (sau này là Victoria University) và một năm sau, tại trường Phillip Institute of Technology (sau này nhập vào trường RMIT).

Từ cuối thập niên 1980 đến giữa thập niên 1990, có khoảng 10 trường đại học tại Úc, phần lớn tại tiểu bang Victoria, giảng dạy tiếng Việt như một chuyên ngành hoặc trong chương trình Cử nhân Văn khoa hoặc trong chương trình Cử nhân Thông ngôn và Phiên dịch.[28]

Có điều, từ giữa thập niên 1990, chương trình tiếng Việt ở bậc đại học tại Úc bắt đầu suy thoái. Các trường đại học lần lượt đóng cửa ngành Việt ngữ và Việt học. Đến đầu thế kỷ 21, cả nước Úc chỉ còn lại hai trường đại học có ngành Việt ngữ và Việt học, đó là trường Australian National University (ANU) ở Canberra và Victoria University ở Melbourne, Victoria.

Tiếng Việt tại trường Victoria University (Melbourne)

Tại trường Victoria University, tiếng Việt được giảng dạy trong chương trình Cử nhân cũng như hậu-Cử nhân, bao gồm chương trình Honours và chương trình Thạc sĩ (M.A.). Ở đây, tôi xin tập trung vào chương trình Cử nhân.

Vị trí của chuyên ngành Tiếng Việt trong chương trình Cử nhân

Chương trình Cử nhân Văn khoa (B.A.) tại Úc thường kéo dài 3 năm, bao gồm 6 học kỳ, học toàn thời. Để tốt nghiệp, sinh viên phải hoàn tất 24 tín chỉ (unit/subject); mỗi tín chỉ kéo dài một học kỳ, trong đó, phải có ít nhất là hai chuyên ngành (major/specialisation),[29] mỗi chuyên ngành thường gồm 6 tín chỉ, kéo dài trong ba năm.[30] Số tín chỉ còn lại, ngoài một vài môn cơ bản (foundation unit) và phần thực tập, sinh viên có thể tự do chọn lựa các môn học phụ (minor; bao gồm khoảng 4 tín chỉ) hoặc các môn nhiệm ý (elective; bao gồm một hoặc hai tín chỉ).

Năm thứ nhất Năm thứ hai Năm thứ ba
Học kỳ 1 Chuyên ngành 1
Chuyên ngành 2
Môn cơ bản
Nhiệm ý
Chuyên ngành 1
Chuyên ngành 2
Nhiệm ý
Nhiệm ý
Chuyên ngành 1
Chuyên ngành 2
Nhiệm ý
Thực tập
Học kỳ 2 Chuyên ngành 1
Chuyên ngành 2
Môn cơ bản
Nhiệm ý
Chuyên ngành 1
Chuyên ngành 2
Nhiệm ý
Nhiệm ý
Chuyên ngành 1
Chuyên ngành 2
Nhiệm ý
Thực tập
Tổng cộng 8 tín chỉ 8 tín chỉ 8 tín chỉ

Các chuyên ngành trong chương trình Cử nhân tại trường Victoria University khá đa dạng, từ Văn học đến Lịch sử, Chính trị, Tâm lý học, Xã hội học, Quốc tế học, Á châu học, Truyền thông, Âm nhạc, Giáo dục, và tiếng Việt. Ví dụ, một sinh viên có thể chọn hai chuyên ngành là Tiếng Việt và Lịch sử, hoặc Tiếng Việt và Xã hội học, v.v.[31]

Cấu trúc chuyên ngành Tiếng Việt

Chương trình Việt ngữ và Việt học tại trường Victoria University bao gồm 11 lớp học với nhiều trọng tâm và trình độ khác nhau, bao gồm:

Mã số Tên môn học
ACV1001 Basic Vietnamese A
Tiếng Việt Sơ Cấp A
ACV1002 Basic Vietnamese B
Tiếng Việt Sơ Cấp B
ACV2001 Intermediate Vietnamese A
Tiếng Việt Trung Cấp A
ACV2002 Intermediate Vietnamese B
Tiếng Việt Trung Cấp B
ACV3011 Vietnamese for Business
Tiếng Việt cho lãnh vực Kinh doanh
ACV3013 Vietnamese Folklore
Văn hoá dân gian Việt Nam
ACV3023 Variation and Change in the Vietnamese Language
Những Biến dị và Thay đổi trong tiếng Việt
ACV3024 A Comparative Study of Vietnamese and English
So sánh tiếng Việt và tiếng Anh
ACV3025 Vietnamese-English Translation
Dịch Việt-Anh
ACV3001 Vietnamese Culture and Society
Văn hoá và Xã hội Việt Nam
ACV3002 Vietnam: Globalisation, Diaspora and Identity
Việt Nam, Toàn cầu hoá, Lưu vong và Bản sắc

Với 11 lớp học như vậy, ngành Việt ngữ và Việt học tại trường VU bao quát nhiều trình độ khác nhau, từ sơ cấp đến trung cấp và cao cấp.[32]

Ở trình độ sơ cấp, gồm hai học kỳ và kéo dài một năm, sinh viên chủ yếu tập trung vào việc học ngôn ngữ với các đề tài thông thường trong đời sống hàng ngày như chào hỏi, làm quen, nói chuyện về quốc tịch, ngôn ngữ, giờ giấc và ngày tháng, về tuổi tác, những điều mình thích và không thích. Sau đó, họ học thêm về các quan hệ trong gia đình, về nghề nghiệp, địa chỉ, mua sắm, v.v. Mục tiêu chính là giúp sinh viên có thể tiến hành được các cuộc đối thoại căn bản với người Việt Nam.

Ở trình độ trung cấp, sinh viên tiếp tục đào sâu và nâng cao trình độ nghe, nói, đọc, viết và nhận thức về văn hoá, đặc biệt văn hoá giao tiếp của người Việt Nam. Đề tài của các lớp trung cấp, một phần, lặp lại các đề tài đã học ở trình độ sơ cấp nhưng với nhiều từ vựng và cấu trúc câu phức tạp hơn; phần khác, tập trung vào một số tình huống thường gặp trong đời sống hàng ngày như chuyện gia đình, giao thông, thời tiết, đi mua sắm, đi bác sĩ, ở khách sạn, du lịch. Sau đó, xa và sâu hơn, sinh viên bắt đầu học về một số đề tài thuộc văn hoá Việt Nam như văn học, nghệ thuật, lễ hội, tôn giáo, thể thao, v.v. Mục tiêu chính ở trình độ này là giúp sinh viên không những có thể đàm thoại mà còn có thể đọc được phần nào những bài viết đơn giản bằng tiếng Việt hầu tiếp tục học thêm hoặc sử dụng tiếng Việt như một công cụ nghiên cứu.

Ở trình độ cao cấp, chủ yếu dành cho sinh viên Việt Nam và một số sinh viên ngoại quốc đã học tiếng Việt được hai năm, đề tài được đa dạng hoá. Ví dụ, sinh viên được học tiếng Việt trong lãnh vực kinh doanh và thương mại, tiếng Việt trong phim ảnh và các phương tiện truyền thông đại chúng, tiếng Việt trong văn hoá dân gian và trong văn học, so sánh tiếng Việt và tiếng Anh cũng như dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh hoặc ngược lại, v.v.

Ngoài ra, còn có hai lớp tập trung chủ yếu vào văn hoá chứ không phải là ngôn ngữ. Hai lớp này được giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh cho cả sinh viên Việt Nam lẫn sinh viên ngoại quốc. Trong khi lớp ACV3001 Vietnamese Culture and Society tập trung vào văn hoá truyền thống, bao gồm từ tín ngưỡng đến phong tục, tập quán, gia đình, ẩm thực, vai trò của phụ nữ, v.v. lớp ACV3002 Vietnam: Globalisation, Diaspora and Identity tập trung chủ yếu vào văn hoá đương đại, đặc biệt kể từ sau năm 1975, với xu hướng toàn cầu hoá và hiện tượng gần bốn triệu người Việt Nam quyết định định cư ở nước ngoài. Lớp học tìm hiểu về những thay đổi trong đời sống gia đình, quan hệ giữa nam nữ, giữa các thế hệ, về các thành tựu của cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại, quan hệ giữa họ với quê gốc và với quốc gia nơi họ đang định cư, và cuối cùng, những thay đổi trong ý niệm về bản sắc của người Việt khi sống ở nước ngoài cũng như trước làn sóng toàn cầu hoá.

Sinh viên học Tiếng Việt

Các sinh viên học ngành Việt ngữ và Việt học là những ai?

Họ gồm hai thành phần chính:

Thứ nhất là sinh viên Úc hoặc sinh viên từ các nước khác, những người muốn học tiếng Việt hoặc muốn tìm hiểu về văn hoá Việt Nam. Điều đặc biệt là số sinh viên học về văn hoá nhiều hơn hẳn số sinh viên học tiếng Việt. Trong số sinh viên học tiếng Việt, chỉ có một số ít chọn tiếng Việt như một chuyên ngành liên tục trong ba năm. Phần lớn chỉ học khoảng một hay hai học kỳ rồi ngừng.

Thứ hai là sinh viên Việt Nam. Trước đây, hầu hết sinh viên Việt Nam là những người sinh trưởng ở Việt Nam, có người đã học xong trung học hoặc đại học ở Việt Nam. Trình độ tiếng Việt của họ rất khá. Sau này, con số những sinh viên này ngày càng giảm. Thế vào đó là những sinh viên thuộc thế hệ thứ hai, tức những người sinh ra tại Úc, hoặc thuộc thế hệ 1.5, tức những người sinh ra tại Việt Nam nhưng sang Úc lúc còn nhỏ, ở độ tuổi tiểu học hoặc những năm đầu tiên của trung học. Trình độ tiếng Việt của họ còn rất hạn chế. Họ muốn học thêm tiếng Việt để hoàn thiện thêm khả năng đọc và viết.

Nhận xét chung

Với những con số học sinh và sinh viên học tiếng Việt từ tiểu học đến đại học nêu trên, chúng ta dễ dàng hiểu tại sao người Việt được đánh giá là cộng đồng bảo vệ tiếng mẹ đẻ tốt nhất tại Úc. Thế hệ thứ nhất nói tiếng Việt ở nhà, đã đành.[33] Cả thế hệ thứ hai, tức những người sinh ra và lớn lên tại Úc, cũng vẫn nói tiếng Việt ở nhà.

Theo kết quả điều tra dân số Úc năm 2001, có đến 95.9% người Việt Nam nói tiếng Việt ở nhà (Tỉ lệ này ở người Hoa chỉ có 79.6%; người Hy Lạp 68.8%; người Ý 42.3%, người Đức 9.8%).[34]

Theo kết quả cuộc điều tra dân số năm 2006, 89% trẻ em Việt Nam thuộc thế hệ thứ hai vẫn giữ được thói quen nói tiếng Việt trong gia đình, có lẽ chủ yếu với bố mẹ. Đây là tỉ lệ cao nhất trong tất cả các cộng đồng di dân tại Úc.[35]

Thành tựu ấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Nhưng có lẽ quan trọng nhất là nhờ chính sách đa văn hoá của chính phủ Úc.

Từ đầu thập niên 1980, chính phủ Úc chính thức công nhận Úc là một quốc gia đa văn hoá. Nhưng nói đến đa văn hoá cũng là nói đến đa ngôn ngữ. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1982, Thượng viện Liên bang Úc tổ chức một cuộc hội nghị quan trọng, trong đó, người ta nêu lên bốn nguyên tắc chính để xây dựng một chính sách ngôn ngữ quốc gia:

  • Hoàn thiện khả năng tiếng Anh cho mọi người;
  • Duy trì và phát triển các ngôn ngữ ngoài tiếng Anh;
  • Cung cấp các dịch vụ liên quan đến các ngôn ngữ ngoài tiếng Anh; và
  • Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người học ngôn ngữ thứ hai.

Dựa trên các nguyên tắc ấy, năm 1987, Úc công bố một chính sách quốc gia hoàn chỉnh về ngôn ngữ (National Policy on Languages) do Joseph Lo Bianco chấp bút. Chính sách ấy bao gồm mấy nội dung chính:

Thứ nhất, nó ghi nhận tầm quan trọng đặc biệt của ngôn ngữ: Ngôn ngữ là nguồn suối của bản sắc cá nhân, của cộng đồng, hơn nữa, của quốc gia. Ngôn ngữ là nền tảng của các cuộc tiến hoá về văn hoá, là cái mã (code) của những kinh nghiệm đặc thù của từng tộc người, là phương tiện truyền giao kiến thức giữa các thế hệ, là công cụ để thống trị nhưng đồng thời cũng là vũ khí để giải phóng và để thăng hoa con người.

Thứ hai, nó xác nhận tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Úc. Trước, mặc dù tiếng Anh giữ vai trò độc tôn trong xã hội nhưng lại không có văn kiện pháp lý nào khẳng định điều đó cả.

Và thứ ba, bản chính sách ấy cũng thừa nhận Úc là một xã hội đa ngôn ngữ, do đó, song ngữ (bilingualism) là một hiện tượng phổ biến và cần được khuyến khích. Hệ quả của nguyên tắc này là chính phủ phải giúp đỡ và tạo điều kiện cho việc học ngôn ngữ thứ hai, và duy trì các ngôn ngữ cộng đồng cũng như các ngôn ngữ của người thổ dân vốn sinh sống tại Úc cả hàng chục ngàn năm trước khi lịch sử định cư của người da trắng bắt đầu.

Từ đó đến nay, chính sách ngôn ngữ của Úc có một số thay đổi về tiểu tiết, nhưng những nguyên tắc chung thì vẫn được giữ nguyên. Đó chính là điều kiện thuận lợi giúp cho việc giảng dạy tiếng Việt tại Úc đạt được nhiều thành tựu tốt đẹp mà cộng đồng người Việt ở các quốc gia khác không dễ gì có được.

Phương pháp dạy tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai
Methods of Teaching Vietnamese as a Second Language
Published by Người Việt Books 2014
Cover design by Trần Minh Triết
ISBN: 978-1-62988-062-4
© 2014 by Nguyễn Hưng Quốc & Người Việt. All rights reserved.

[1] Tên gọi chung các nước láng giềng của Việt Nam, trừ Trung Quốc.

[2] Có lẽ là nước Tumasik, tên cổ của nước Singapore hiện nay.

[3] Chân Định: Một huyện thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.

[4] Đại Việt sử ký toàn thư, tiền biên, Viện Nghiên cứu Hán Nôm dịch, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1997, tr. 430-1.

[5] Các trích dẫn liên quan đến Alexandre de Rhodes đều lấy từ bài “Alexandre de Rhodes có phát minh ra chữ quốc ngữ?” của Alain Guillemin do Ngô Tự Lập dịch và đăng trên http://viet-studies.info/AlainGuillemin_DeRhodes.htm

[6] Như trên.

[7] Anatoli Solokov, “Vietnamese Studies in the Soviet Union”, in trên Journal of Vietnamese Studies số 5 (January 1992), tr. 4-13.

[8] N.I. Niculin (2000), Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế (Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu), Hà Nội: nxb Giáo dục, tr. 643-7.

[9] Xem cuốn A History of the Center for Vietnamese Studies at Southern Illinois University, 1969-1976 của Larry D. Lagow, Southern Illinois University ở Carbondale xuất bản năm, 1977; bài “Universities and the Vietnam War: a Case Study of a Successful Struggle” của Douglas Allen trên Bulletin of Concerned Asian Scholars, Vol. 8, 1976. Một số phản ứng chung quanh Trung tâm này có thể xem trên trên http://www.dailyegyptian.com/riot/riotvcenter.html

[10] Theo Ngô Như Bình trong bài “The Vietnamese Language Learning Framework” http://www.seasite.niu.edu/jsealt/past%20issues/volume%2010/VN%20LLF%20Part%20I.pdf

[11] Đây chỉ một số nước và một số đại học tiêu biểu, chứ không phải là một danh sách đầy đủ những nơi có môn tiếng Việt.

[12] Xem http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=135439&z=1

[13] Xem thông tin trên trang web của Bộ giáo dục tiểu bang Victoria:
http://www.education.vic.gov.au/studentlearning/teachingresources/lote/clsforschools.htm

[14] Tôi không tìm ra con số nào cập nhật hơn năm 1998, tuy nhiên, tôi tin số học sinh học tiếng Việt từ đó đến nay nếu không giảm thì thôi chứ khó có thể tăng thêm được.

[15] Anh Tran (2008), “Vietnamese Language Education in the United States”,  Language, Culture and Curriculum, vol 21, No 3, 2008.

[16] http://www.vanlangsj.org/view.php?pg=vl_introduction.

[17] http://en.wikipedia.org/wiki/Demographics_of_California

[18] Đây chỉ là số người sinh ra ở Việt Nam. Cũng theo cuộc điều tra dân số năm 2006, số người nói tiếng Việt tại tiểu bang là 72.170 người, gồm cả người Việt thuộc thế hệ thứ hai. Xem:
http://www.multicultural.vic.gov.au/images/stories/pdf/vietnam-born-2006%20census.pdf

[19] Trong số này, riêng trường Lạc Hồng (Hiệu trưởng: Thái Đắc Nhương) ở Melbourne, Úc, đã có trên 2.500 học sinh ghi danh, từ lớp mẫu giáo đến lớp 12, học ở năm trung tâm khác nhau trong thành phố. Có lẽ đây cũng là trường Việt ngữ có đông học sinh nhất thế giới (ngoài Việt Nam).

[20] Theo Ha Lam, “Vietnamese Immigrants and Language in the USA” trên
www.globo-portal.com/…/2/6/…/vietnamese_research_paper_for_matt.doc

[21] Xem Nguyễn Xuân Thu, 1995, Profiles of Languages in Australia: Vietnamese, ACT: National Languages and Literacy Institute of Australia Limited, tr. 21-3.)

[22] Ở một số nơi, có khi lại tăng. Ví dụ, tại tiểu bang New South Wales, số học sinh học tiếng Việt năm 1997 là 3273 em; năm 2007 là 4317 em, tăng 31.9%. Xem
http://www.uws.edu.au/__data/assets/pdf_file/0020/46307/Community_Languages_Matter_Final_report.pdf

[23] Xem Joseph Lo Bianco (2009), Australian Education Review: Second Languages and Australian Schooling, Camberwell: Australian Council for Educational Research

[24] Theo email do Ban giám đốc hệ thống trường Victorian School of Languages gửi tôi ngày 20 tháng 6, 2011, năm 2011, riêng hệ thống trường VSL có 1.906 học sinh học tiếng Việt. Tôi không có số học sinh tại các trường chính mạch, tuy nhiên, tôi đoán, có lẽ nó cũng không thấp hơn con số năm 2007 bao nhiêu.

[25] Xem Lo Bianco (2009), sđd., tr. 55. Xin lưu ý là, vì lý do nào đó, số liệu trên không bao gồm tiểu bang Western Australia, nơi cũng có một số học sinh Việt Nam học tiếng Việt. Bởi vậy, con số 15.000 học sinh đang học tiếng Việt ở bảng này có lẽ chưa đầy đủ. Tiếc, tôi không tìm ra một số liệu này khác để biết tại Western Australia có bao nhiêu học sinh học tiếng Việt để bổ khuyết cho thống kê này.

[26] RUMACCC, 2007, tr. 6-9.

[27] Thử làm một so sánh nhỏ: Ở Nhật, nơi có khoảng 41.000 người Việt sinh sống, chỉ có khoảng 200 trẻ em học tiếng Việt ở bậc tiểu học. (Xem Tomomi Nishikawa, “Vietnamese as a heritage language in a Japanese public elementary school” trên
www.nhlrc.ucla.edu/events/institute/…/Vietnamese-heritage-Japanese.ppt).

[28] Nguyễn Xuân Thu (1995), sđd.

[29] Còn gọi là ngành học chính. Trong tiếng Anh, trước, người ta thường dùng chữ “major”; sau, càng ngày càng có nhiều trường có khuynh hướng thay chữ “major” bằng chữ “specialization”. Dù dưới tên gì đi nữa thì, trên căn bản, chúng vẫn giống nhau, được dùng để phân biệt với ngành học phụ (submajor/minor) và môn nhiệm ý (elective).

[30] Đó là nói chung. Trên thực tế, một số chuyên ngành có thể kéo dài hơn, gồm 8 tín chỉ (như Chính trị học trong chương trình Cử nhân Quốc tế học) hoặc 10 tín chỉ (như Tâm lý học). Nhưng đa số là 6.

[31] Xin lưu ý là trong cuốn sách  này, toàn bộ các chữ “vân vân” viết tắt đều chỉ có một dấu chấm phía sau (v.v.) thay vì ba dấu chấm (v.v…) như thường thấy. Xem lời giải thích ở phần Dấu câu, phía sau.

[32] Các lớp trong chuyên ngành Việt ngữ và Việt học tại Đại học Victoria có thể thay đổi từng năm. Để cập nhật, xin xem trang web:  http://www.vu.edu.au/unitsets/ASPVIE

[33] Thuộc thế hệ thứ nhất, chỉ có 3% chuyển sang dùng tiếng Anh trong nhà. Đây là tỉ lệ thấp nhất ở Úc. Ở người Tàu (lục địa) là 3.8%; người Đài Loan 4.8%; người Campuchia 5.3%; người Lebanon 7.4%; người Hy Lạp 8.6%; người Hong Kong 11.2%; người Nga 14.2%; người Indonesia 17.3%; người Nhật 17.4%; người Tây Ban Nha 27.5%; người Pháp 35%; người Đức 53.9%; người Áo 55.2% và người Hà Lan 64.4%. Xem “Multilingualism, Multiculturalism and Integration” của Michael Clyne trên epress.anu.edu.au/multiculturalism/pdf/ch03.pdf. Xem thêm trang Australian Bureau of Statistics: http://www.abs.gov.au/ausstats/abs@.nsf/2f762f95845417aeca25706c00834efa/d67b7c95e0e8a733ca2570ec001117a2!OpenDocument

[34] http://www.abs.gov.au/Ausstats/abs@.nsf/7d12b0f6763c78caca257061001cc588/af5129cb50e07099ca2570eb0082e462!OpenDocument .

[35] Nguồn: http://www.abs.gov.au/ausstats/abs@.nsf/mf/2070.0


Xem tiếp:

Nguyễn Hưng Quốc: Phương pháp dạy tiếng Việt | Kỳ 3: Dạy tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai: Dễ hay khó?

Bài ngẫu nhiên

Bài mới