
17/2/1979, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do Trung Quốc phát động nổ ra tại các tỉnh biên giới phía Bắc.
Có người nói đây là cuộc chiến “huynh đệ tương tàn”.
Xét về mặt nguồn gốc huyết thống, nói đến chữ “huynh đệ” thì còn không ít bàn cãi, bởi nguồn gốc chủng tộc cũng chẳng thể gói gọn một cách đơn giản trong hai chữ “Trung Hoa” hay “Trung Quốc”. Xét về mặt chủ nghĩa (cộng sản) hay “tình láng giềng” được mở rộng nghĩa trong bối cảnh ấy thì chữ “huynh đệ” này có thể tạm chấp nhận được.
Tuy nhiên, bất kỳ chữ tương tàn nào cũng là chém giết, là huỷ diệt nhau. Mâu thuẫn lớn nhất ở cái thời người ta ra rả đề cao về cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản” hay “chủ nghĩa cộng sản toàn thế giới” chính là sự lừa mị ấu trĩ trong tư tưởng của những kẻ tranh bá đồ vương, bởi núp sau nó vẫn là bộ mặt thật của sự lật lọng, lừa gạt và dối trá kéo dài.
Chủ nghĩa dân tộc đại Hán, hay chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh đặt trong tổng thể của tâm thức chiến tranh, nó chẳng hề khác với tâm thức “mở cõi” của bất kỳ dân tộc, chủng tộc nào (xin đặt trong tình thế mạnh được yếu thua). Bởi bản thân người Hán cũng từng bị các bộ tộc nhỏ khác xâm chiếm đô hộ.
Nỗi nhục của một dân tộc, một quốc gia là để khách biến thành chủ, là không thể đánh đuổi kẻ cướp ra khỏi hàng rào nhà mình.
Dù có biện luận nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến là sự dịch chuyển chiến lược của tam giác Mỹ – Trung – Liên Xô, thì những Chi Lăng, Xương Giang, Bạch Đằng, Đống Đa đều không phải là chiến thắng ngẫu nhiên của dân tộc này.
Đó cũng là tâm thức nối dài trong mạch chiến thắng bạo cường của dân tộc này trước bản chất thật của một nền chính trị cường quyền Đại Hán luôn thay hình đổi dạng.
Có độc lập, tự do và khát vọng yên bình nào không phải trả những cái giá đớn đau, kể cả sau mỗi chiến thắng?
Đó cũng là một lời nguyền khác của chiến tranh, bởi khi phát động chiến tranh thì mọi thiên thần đều rớt xuống bùn lầy.
Karl Marx đề cao cái thứ triết học “đấu tranh cho tự do tiến bộ của loài người”. Nhưng bộ mặt thật của thứ chủ nghĩa mà ông khuyếch trương lại không ít lần đóng vai thần Zeus (Dớt).
Trong lịch sử, Việt Nam ví như Promethe, còn Trung Quốc giống như Zeus. Promethe Việt Nam dùng hết sức mạnh tiềm tàng của mình để lấy được ngọn lửa tự do, tuy được xem là thần bất tử (sau bao cuộc xâm lăng hủy diệt) nhưng vẫn bị cái xiềng “phong vương” của Zeus Trung Quốc xích lại.
Lịch sử sẽ lặp lại tâm thức ấy một lần nữa sau thời cộng sản hay không? Vẫn là một Promethe bất tử nhưng bị xiềng ư?
Rõ ràng nhìn vào vận nước, Việt Nam không thể chết được, vì truyền đời vẫn còn đó những con người chưa để chết lòng mình, dù cơ thể núi sông luôn bị dày vò cắn xé. Nhưng từ bên trong, mối hoạ chết lòng và mất sạch niềm tin mới là mối hoạ hủy diệt.
Mâu thuẫn nghiệt ngã nhất chính là những kẻ luôn đề cao tự do lại sẵn lòng thẳng tay bóp chết tự do. Đất nước này không thể có tự do trọn vẹn khi không đủ đất sống cho những người tự do. Nói cách khác, Promethe trong mỗi chúng ta vẫn đang bị xiềng xích bởi nỗi sợ thần thuộc, nỗi sợ độc tài…
Chiến tranh của Zeus là sự điên rồ của cuồng vọng chúa tể (thiên triều) nhưng cũng là nỗi sợ vận mệnh. Việt Nam tuy nhỏ, nhưng vẫn là cửa ngõ vận mệnh. Đồng mệnh tương liên, phải điểm ở huyệt nào để Zeus phải rùng mình?
Văn minh của ngọn lửa khát vọng mà Promethe mang về vẫn còn nguyên vẹn trong tâm thức dân tộc, nhưng muốn có hạnh phúc thì phải có tự do trọn vẹn, con người luôn sẵn lòng trong sạch, sống thật tử tế với nhau, tử tế với núi sông vạn vật. Đó là cách thức khác để Zeus thấy ngọn lửa mà Promethe mang về không phải là bản sao sức mạnh bạo quyền của Zeus. Đi trước Zeus bằng tinh thần tự do. Đi trước Zeus bằng tinh thần xã hội dân sự cởi mở chính là nắm được một phần vận mệnh của Zeus.
Không thể vô ơn khi quên bặt công lao của những người ngã xuống, nhưng kỷ niệm ngày chống lại cuộc chiến xâm lược không phải ngồi rên rỉ với nỗi đau. Và cũng xin các “Promethe” đừng mãi tự hào vì sự bất tử trong xiềng xích.
_____________
Tựa do Bodhi Media đặt