Biểu tình chống đảo chính ở Myanmar ngày càng nóng, cùng với số người thiệt mạng vì biểu tình tăng lên hàng ngày. Người ta đặt câu hỏi, Phật giáo đang ở đâu trên đất nước Myanmar?
Nhìn hình ảnh tăng sĩ cùng mọi tầng lớp nhân dân xuống đường biểu tình bất bạo động, người ta có cảm giác quen thuộc với nhiều cuộc biểu tình khác từ trong quá khứ trên đất nước này. Nhưng tính chất không phải lúc nào cũng giống nhau. Bởi lẽ trong lịch sử, giáo hội tăng già Myanmar không phải một giáo hội tập quyền, mà là “giáo hội” của những vị tăng sống theo lời dạy của Đức Phật nơi mỗi ngôi chùa riêng lẻ.
Những vị quốc vương bảo hộ Phật giáo lần lượt thay nhau lùi vào lịch sử khi người Anh xâm chiếm, biến Myanmar thành thuộc địa. Và như diễn biến chung trong các nước thuộc địa, Phật giáo và các tín ngưỡng nội sinh có nhiều kết hợp, thay đổi cả trong thời cơ lẫn thách thức về văn hoá, tín ngưỡng trước các chính sách đồng hoá văn hoá, tín ngưỡng…
Tăng già, chùa chiền, văn hoá Phật giáo trở thành trụ cột trong liên kết đối kháng chống ngoại xâm, nhưng cũng từ đó mà hình thành các tổ chức, phe nhóm khác nhau về lợi ích.
U Nu là vị thủ tướng đầu tiên của Myanmar độc lập, một nhà lãnh đạo tài ba, được thế giới kính nể. Ông cũng là một vị Phật tử thuần thành, bảo trợ Phật giáo… Nhưng khi ông đưa Phật giáo vào làm quốc giáo trong trọng tâm tranh cử năm 1960, nhằm xây dựng một “xã hội chủ nghĩa Phật giáo” thì Đảng của ông bắt đầu chia rẽ…
Gặp khó khăn về kinh tế, cùng với sự chống đối của các chủng tộc, hiểm họa ly khai, bất an ninh ở biên giới, những biện pháp ủng hộ Phật giáo của ông như cấm giết bò, áp dụng lịch Phật giáo, chuyển đổi án tử hình, hòa giải với phe cộng sản… tạo cơ hội cho quân đội làm đảo chính, dựng lên một chế độ độc tài tàn bạo từ suốt 1962 cho đến khi phong trào dân chủ thành công dưới sự đấu tranh dẫn dắt không mệt mỏi của bà Aung San Suu Kyi.
Nhưng có phải vì U Nu bị lật đổ mà Phật giáo bị triệt tiêu hay hạn chế không? Không hề. Chế độ độc tài ấy không hề ngăn cản Phật giáo mà còn đẩy mạnh thao túng từng nhóm tăng già vốn đã chia rẽ. Mặt khác khích lệ tối đa tín ngưỡng thờ Nat bằng các hình thức bùa chú, phù phép…
Ảnh minh họa | Internet
Tướng tá thay nhau thể hiện sự sùng đạo, cho xây chùa to Phật lớn khắp cả nước. Hình ảnh các ông tướng mộ đạo xuất hiện bên cạnh các sư sãi, chùa chiền, rước Phật, hành hương tràn ngập trên màn ảnh, báo chí. Đặc biệt lễ rước xá lợi răng Phật từ Trung Quốc đưa về được tổ chức cực kỳ hoành tráng trong cả nước kéo dài suốt 45 ngày.
Chế độ độc tài ấy “có sức sống” mấy thập kỷ như vậy nhưng tại sao khuất phục trước phong trào dân chủ của bà Aung San Suu Kyi. Vì họ chỉ nắm được cái bóng của Phật giáo mà không nắm được linh hồn Phật giáo. Trước đó, những cuộc biểu tình của tăng sĩ do quân đội giật dây nhằm chống lại chính sách về người thiểu số Hồi giáo nhằm gây khó hay buộc bà Aung San Suu Kyi nhượng bộ, chỉ nhằm làm giảm uy tín của bà, gây thêm chia rẽ tôn giáo, không phản ánh đúng bản chất của Phật giáo Myanmar.
Cho nên hình ảnh tăng sĩ xuống đường trong mỗi giai đoạn lịch sử, hay trong từng hoàn cảnh không thể dễ dàng đồng nhất nếu không thể hiểu chiều sâu ảnh hưởng của Phật giáo Myanmar cũng như những ngón nghề trong thủ đoạn chính trị của giới quân đội nắm quyền.
Phật giáo của sợi tóc thiêng hay dấu chân Đức Phật mới nuôi dưỡng tinh thần dân tộc Myanmar. Còn một nhóm Phật giáo thế quyền, hưởng lợi ích từ các phe nhóm quân đội, không phản ánh ước muốn độc lập, dân chủ, hoà bình của người dân Myanmar.
Bà Aung San Suu Kyi chạm được vào linh hồn dân tộc Myanmar cũng bởi chính những điều giản dị thiêng liêng ấy. Và hôm nay những tăng sĩ kia xuống đường là vì họ muốn thắp sáng điều thiêng liêng ấy.
Bà Aung San Suu Kyi từng nói: “Quan tâm đầu tiên của tôi là theo sát những nguyên tắc của đức Phật trong mọi hành động của tôi trên đời. Như vậy là bởi vì tôi tin rằng tất cả chúng ta, là con người, đều có một bề sâu tâm linh không thể lơ đãng được”…